Trang

Thứ Tư, 29 tháng 2, 2012

Vài nét về điện thoại di động

1. Giới thiệu Hệ thống điện thoại di động tính đến nay đã trải quan 3 thế hệ : 1G, 2G và 3G (G là từ viết tắt của Generation). Thế hệ đầu tiên, 1G, sử dụng công nghệ analog đa truy cập phân chia theo tần số FDMA ( Frequency - Division Multiple Access). Thế hệ này mang nhiều nhược điểm như : dung luợng thấp, xác suất rớt cuộc gọi cao, chất lượng âm thanh kém, không có chế độ bảo mật, … Thế hệ thứ hai, 2G, là thế hệ điện thoại di động hiện nay đang được sử dụng. Trong hệ thống này, công nghệ số đa truy cập phân chia theo gian TDMA ( Time- Division Multiple Access) và công nghệ số đa truy cập phân chia theo mã CDMA (Code – Division Multiple Access) được sử dụng. Trong đó, công nghệ TDMA được sử dụng trong hệ thống thông tin di động nổi tiếng GSM (Global System for Mobile Communications). GSM hiện được sử dụng rất phổ biến ở Việt Nam trong các dịch vụ cung cấp thông tin di động lớn như : Mobifone (GSM 900, GSM 1800), Vinaphone (GSM 900, GSM 1800), Viettel (GSM 900, GSM1800), Vietnamobile (GSM 900), Beeline (GSM 1800). Các dịch vụ cung cấp thông tin di động còn lại sử dụng công nghệ CDMA như SFone (CDMA2000 800), EVNTelecom (CDMA2000 450). Thế hệ thứ hai rưỡi, 2.5G, là bước chuyển từ 2G sang 3G, là hệ thống 2G được trang bị hệ thống chuyển mạch gói (packet-switched domain) bên cạnh hệ thống chuyển mạch kênh truyền thông (circuit-switched domain). Việc giới thiệu Dịch vụ vô tuyến gói tổng hợp GPRS (General Packet Radio Service) của GSM và 1xRTT của CDMA2000 đã dẫn đến sự ra đời của thế hệ thứ hai rưỡi. GPRS cung cấp dữ liệu từ 56kbit/s đến 115kbit/s, có thể sử dụng các dịch vụ như WAP (Wireless Application Protocol), MMS (Multimedia Messaging Service) và những dịch vụ Internet. 1xRTT hỗ trợ tốc độ truyền dữ liệu lên đến 156.3kbit/s, có thể sử dụng các dịch vụ như GPRS. GPRS phát triển mạng EDGE (Enhanced Data rates for GSM Evolution) với việc giới thiệu mã 8PSK tạo nên thế hệ thứ 2.75G. EDGE là một công nghệ di động số tương thích ngược (backward-compatible digital mobile phone technology) cho phép cải tiến tỷ lệ truyền dữ liệu. Thế hệ thứ ba, 3G, cho phép truyền dữ liệu thoại và dữ liệu ngoài thoại (hình ảnh, video, …). Với công nghệ này, nhà cung cấp dịch vụ có thể mang đến cho khách hàng các dịch vụ đa phương tiện như âm nhạc, hình ảnh, video chất lượng cao, truyền hình số, … Năm 2007, Liên minh Viễn thông Quốc tế ITU (International Telecommunication Union) đề xuất 6 nhóm chính và xây dựng thành chuẩn IMT-2000 (International Mobile Communication for the year 2000). Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/3G Dù ITU khẳng định rằng tốc độ truyền dữ liệu của 3G tối đa là 2Mbit/s đối với người sử dụng đứng yên và đi bộ, 384kbit/s đối với người sử dụng trên các phương tiện di chuyển nhưng lại không đưa ra tốc độ trung bình hoặc tối thiểu cần có của 1 hệ thống 3G. 3.5G là dịch vụ nâng cao của 3G, sử dụng gói truy cập tốc độ cao HSPA (High Speed Packet Access). Đây là dịch vụ hợp nhất hai giao thức điện thoại di động (mobile telephony protocol) là HSDPA ( High Speed Downlink Packet Access) và HSUPA (High Speed Uplink Packet Access). Tốc độ download lên đến 14Mbit/s và tốc độ upload lên đến 5.76Mbit/s. Tuy nhiên trên thực tế nó chỉ nhanh hơn 3G chút ít. Thế hệ thứ tư, 4G, gồm 2 chuẩn công nghệ là WiMax và Long Term Evolution (LTE). Cả WiMax và LTE đều sử dụng các công nghệ thu phát tiên tiến để nâng cao khả năng bắt sóng và hoạt động của thiết bị, mạng lưới. Tuy nhiên, mỗi công nghệ đều sử dụng một dải băng tần khác nhau. Tốc độ tải xuống lên đến hơn 10Mbps. 2. Cấu trúc cơ bản mạng lưới hình lục giác Trong GSM, 3 băng tần được sử dụng là 900MHz, 1800MHz và 1900MHz. Ở Việt Nam, chỉ sử dụng hai băng tần là 900MHz và 1800MHz như đã trình bày ở trên. Ở băng tần 1800MHz, điện thoại di động thu sóng trong khoảng (1805MHz, 1880MHz) và phát ở dải sóng trong khoảng (1710MHz, 1785MHz). Từ đó có thể thấy, khi điện thoại di động thu sóng ở một trạm nào đó, nó sẽ trừ đi 95MHz để có được tần số phát. Tương tự, băng tần 900 có khoảng cách giữa tần số thu và tần số phát là 45MHz. Nghĩa là điện thoại thu sóng trong khoảng (935MHz, 960MHz) và phát sóng trong khoảng (890MHz, 915MHz). Như vậy, trong GSM900 thì dải tần phát của nhà mạng là từ 890MHz đến 915MHz, nghĩa là chỉ có 25MHz. Mỗi kênh thoại chiếm khoảng 200kHz, suy ra có 125 kênh thoại có thể sử dụng cùng lúc. Mỗi kênh thoại chia thành 8 khe thời gian, trong đó, 1/8 dành cho tính hiệu điều khiển và 7/8 khe còn lại dành cho 7 thuê bao. Nên tổng số thuê bao có thể liên lạc trong cùng 1 thời điểm là 127 x 7 = 875 (thuê bao). Con số quá nhỏ so với số người sử dụng điện thoại di động ở nước ta. Giải pháp được đưa ra là chia khu vực phủ sóng thành những ô hình lục giác. Mỗi ô có 1 trạm thu phát sóng và những ô không liền kề nhau có thể sử dụng chung 1 tần số. Kích thước mỗi ô tùy thuộc vào từng khu vực cụ thể. Nhờ đó mà số lượng thuê bao thoại cùng một lúc tăng lên rất nhiều. NNS PS: Tổng hợp từ các tài liệu trên Internet

GIS và phân khúc thị trường

1. ĐẶT VẤN ĐỀ Nhu cầu chọn mua hàng hóa của con người rất đa dạng. Cùng một loại hàng hóa nhưng có người thích sử dụng màu này, có người thích sử dụng màu khác, hình dạng này hay hình dạng khác,…Nếu công ty chạy theo tất cả nhu cầu của người tiêu dùng thì họ sẽ phải sản xuất ra rất nhiều loại hàng hóa, tốn kém chi phí, khả năng công ty không đáp ứng nổi và việc kinh doanh của công ty đó mang tính rủi ro cao. Do vậy, phân khúc thị trường rất cần thiết đối với các công ty và là tiền đề cho các chiến lược thị trường. Nếu việc phân khúc thị trường được thực hiện tốt, phân khúc mục tiêu được xác định rõ ràng, thì các chiến lược trên thị trường dễ dẫn đến thành công hơn do những nhà tiếp thị đã thấu hiểu thị trường, thấu hiểu nhu cầu khách hàng. Phân khúc thị trường giúp các công ty nhỏ có thể cạnh tranh hiệu quả trên thị trường bằng việc xác định một vài phân khúc phù hợp với tiềm lực công ty và giúp cho các công ty trung bình và lớn củng cố và mở rộng thị trường. Có rất nhiều định nghĩa về phân khúc thị trường được đưa ra bởi các nhà nghiên cứu tiếp thị. Tùy vào hoàn cảnh, cách nhìn nhận thị trường của từng người mà có những định nghĩa về phân khúc thị trường khác nhau. Theo Danneels [1] thì phân khúc thị trường là quá trình chia một thị trường với sự đa dạng về nhiều mặt thành những nhóm khách hàng tiềm năng nhỏ hơn với những đặc điểm giống nhau có cùng cách thức mua sản phẩm. Craft [2] định nghĩa việc phân khúc thị trường là quá trình xác định các nhóm người khác nhau bên trong thị trường mà những người đó là mục tiêu của một sản phẩm nào đó hoặc chương trình tiếp thị nào đó. Mặc dù có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phân khúc thị trường nhưng tổng quát phân khúc thị trường là việc chia thị trường không đồng nhất thành những thị trường nhỏ hơn với các đặc điểm càng giống nhau càng tốt để từ đó xác định được những phân khúc phù hợp với tiềm lực công ty để tập trung phát triển. Có rất nhiều phương pháp được các nhà nghiên cứu tiếp thị sử dụng để phân khúc thị trường, nhưng theo tổng hợp của Wind [3], Wind và Bell [4] thì có một số mô hình phân khúc thị trường cơ bản sau: phân khúc xác định trước (Priori segmentation), phân khúc sau phân tích (Post hoc segmentation), phân khúc hỗn hợp (Hybrid segmentation), phân khúc linh hoạt (Flexible segmentation) và phân tích thành phần (Componential segmentation). Mỗi mô hình có đặc điểm cùng những yêu cầu riêng. Trong đó, mô hình phân khúc thị trường post hoc mang một số đặc điểm thuận lợi cho việc tích hợp với hệ thống thông tin địa lý (GIS). Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu là sử dụng mô hình post hoc kết hợp với GIS để phân khúc thị trường thức ăn gia súc. Có thể xem full tại :đây

Thứ Hai, 27 tháng 2, 2012

10 họ phổ biến nhất trên thế giới

Trong số 10 họ phổ biến nhất trên thế giới theo trang web theworldgeography. com thì họ Nguyễn của mình xếp thứ 4 với hơn 36 triệu người. Dưới đây là danh sách 10 họ phổ biến nhất trên thế giới : 1. Li or Lee - More Than 100 Million People 2. Zhang - More Than 100 Million People 3. Wang - More Than 93 Million People 4. Nguyễn - More Than 36 Million People 5. García - More Than 10 Million People 6. González - More Than 10 Million People 7. Hernández - More Than 8 Million People 8. Smith - More Than 4 Million People 9. Smirnov - More Than 2.5 Million People 10. Müller - More Than Million People Có thể đọc đầy đủ bài báo tại đây : http://www.theworldgeography.com/2012/02/10-of-most-common-surnames-in-world.html

Let’s dance

Xem Phương Anh thi Việt Nam’s Got Talent quả thật tôi rất xúc động. Một cô bé không được lành lặn như bao người khác nhưng cảm xúc khi hát khiến tôi phải thán phục. Khi em hát, em chỉ biết có hát, tâm hồn em như hòa quyện vào bài hát, em như quên hết những khó khăn vất vả mà em hằng ngày phải đối mặt. Tại sao mình không cùng nhảy theo bài hát của PA nhỉ ? Trút bỏ hết những ưu phiền trong cuộc sống, chúng ta hãy cùng nhảy theo bài hát Let’s dance nào.
Lời bài hát :
[Verse 1]
The weekends almost done
The moon is low in the sky
I feel like goin out
Before the night passes by
I won't just sit around
When life becomes a drag
I dance

I like the bass (turn it up, turn it up, turn it up)
I like the boom (turn it up, turn it up, turn it up)
I need guitar (turn it up, turn it up, turn it up)
I like that drum when it goes boom boom boom

[Chorus]
Let's dance
What the weekend
What the night is all about
Let's dance
Grab your girlfriends
Grab your boyfriends
Sweat it out
Let's dance
(Move your whole body)
(Let's start the party)
(Speak/rap)
T o the number one girl to make her go crazy
I need someone to dance with me baby
(Dance)

[Verse 2]
The musics on (turn it up, turn it up, turn it up)
My favorite song (turn it up, turn it up, turn it up)
The beat is strong (turn it up, turn it up, turn it up)
We'll dance
Come on

[Chorus]
Let's dance
What the weekend
What the night is all about
Let's Dance lyrics on

Let's dance
Grab your girlfriends
Grab your boyfriends
Sweat it out
Let's dance
(Move your whole body)

(Let's start the party)
(Speak/rap)
T o the number one girl to make her go crazy
I need someone to dance with me baby
(Dance)

Keep movin!

Crank it up!
Yeah

[Bridge]
W hen the night says hello
Yeah get ready to go
Turn it up
Turn it loose
Yeah you got no excuse
Just take a chance
Get out on the floor and dance

[Chorus]
Let' s dance
What the weekend
What the night is all about
Let's dance
Grab your girlfriends
Grab your boyfriends
Sweat it out
Let's dance
(let's dance)
And let's start the party

[Chorus]
Let' s dance
What the weekend
What the night is all about
Let's dance
Grab your girlfriends
Grab your boyfriends
Sweat it out
Let's dance
(Move your whole body)
(Let's start the party)
(Speak/rap)
A s soon as my album goes number one
We'll be livin like a roller with 40 diamonds
Nguồn :http://mp3.zing.vn/bai-hat/Let-s-Dance-Miley-Cyrus/ZWZB06CU.html

Thứ Năm, 23 tháng 2, 2012

Hồi ký : Xóm tôi - Phần 4


Kỳ nghỉ hè đáng nhớ.
Hè năm đó, ba tôi dẫn cả nhà đi lên cơ quan ba tôi chơi. Cơ quan ba tôi nằm tại một huyện vùng sâu, mà thời đó vùng sâu phải nói là cực kỳ vắng vẻ. Trên đường đi, kiếm mỏi cả mắt mới thấy được một căn nhà tranh vách đất. Đường sá lúc đó chỉ là những con đường đất ngoằn ngèo, len lỏi giữa những đám cỏ cao cao mọc ven đường. Cơ quan ba tôi làm việc mà một dãy nhà được xây bằng gạch, được tô xi măng nhưng nó đã ngả màu. Rong rêu là những thứ rất dễ tìm thấy trên các bức tường. Toàn bộ dãy nhà có bốn căn phòng, có một phòng rộng hơn những phòng khác. Cả nhà chúng tôi ở tại một phòng ở phía bìa, đây có thể coi là căn phòng đẹp nhất ở đây. Để vào cơ quan, chúng tôi phải đi qua một con đường nhỏ mà hai bên là hai cái ao lớn. Cái ao bên trái hình hơi tròn, có một cái chồi nhỏ nằm cặp bờ ao. Đó là nhà gia đình cô tôi. Cái ao bên phải hình vòng cung bao bọc cả sân phía trước và phần phía bên phải cơ quan theo hướng từ ngoài đi vào. Những cái ao này được dùng để nuôi cá, giúp tăng thu nhập cho cơ quan. Phía sau cơ quan là những đám ruộng lớn đến nỗi mà tôi không thể thấy được phía sau các đám ruộng đó là gì. Một điều có thể nói là không khí ở đây rất tuyệt vời, không bụi bặm, không ô nhiễm như không khí bây giờ. Bạn không phải nghe tiếng xe cộ, tiếng máy cắt gạch, …đinh tai nhức óc, mà thay vào đó, bạn sẽ được nghe những bản đồng ca, bản hợp xướng du dương, đa âm sắc của cóc, nhái, ễnh ương,…khi chiều tới. Còn vào buổi trưa, không cần phải ở trong máy lạnh ngột ngạt ảnh hưởng đến hô hấp, bạn cũng có thể có những giấc ngủ trưa mát mẻ ở giữa ao. Bởi vì ở giữa cái ao lớn có cất một cái chồi nhỏ, gió lúc nào cũng thổi ù ù như các máy quạt công suất lớn. Điện tất nhiên là chưa có ở nơi khỉ ho cò gáy này rồi. Tối đến, đèn dầu thường được sử dụng, nhưng cũng sử dụng không nhiều, vì phải tiết kiệm dầu, nên hầu như không phải gia đình tôi mà tất cả mọi người ở đây đều đi ngủ rất sớm.
Cô tôi có một đứa con trai, tên Đen, nó lớn tuổi hơn tôi nhưng theo vai vế thì tôi là anh nó. Tuy nhiên, nó không thích gọi tôi bằng anh, và tôi cũng không thích kêu nó bằng em, vì vậy mà chúng tôi xưng mày, tao cho dễ. Hàng ngày, tôi đi chơi với nó là chính, bởi ở đây ngoài nó có ai đâu mà chơi. Tụi thằng Mạnh, thằng Củn giờ đang ở xóm tôi hết rồi. Phải nói là thằng Đen giỏi thiệt, mấy chuyện liên quan đến đồng ruộng nó đều biết, nào là bắt cá, bắt ốc,… nó đều biết. Có lần nó cho tôi xem một lon đựng đĩa, nó nói là nó bắt được, tôi nhìn mà nổi cả da gà. Tôi còn nhớ lần đi bắt ốc, hôm đó, trời chuyển mưa rất dữ dội, ba tôi chèo chiếc ghe trên cái ao lớn. Trong ao rất sâu, gần bờ mà nước đã mất đầu tôi rồi. Tôi không biết bơi, còn ba tôi và thằng Đen thì bơi rất giỏi. Do đó lúc nào tôi cũng phải nắm lấy chiếc ghe. Ba tôi và thằng Đen bơi dọc theo bờ, vách đá, cây nổi trên mặt nước để bắt ốc. Ốc được bắt ở đây là mấy con ốc nhỏ, tôi nghĩ là ốc gạo. Lúc này trời bắt đầu gió mạnh lên, và rồi mưa như trút nước xuống. Nhưng cũng không cản được lòng hăng say bắt ốc của chúng tôi. Kết quả là chúng tôi bắt được khá nhiều ốc nhưng tôi phải cảm lạnh nằm suốt mấy ngày liền.
Ba tháng hè cứ thế trôi qua, cuộc sống hằng ngày của tôi luôn gắn liền với sông nước ruộng đồng. Cuộc sống tuy không đầy đủ về vật chất nhưng được thoải mái về tinh thần. Tôi không phải lo nghĩ về bài kiểm tra, không phải lo về kỳ thi. Đây là điều mà những người lớn rất khó làm được. Cuộc sống đẩy con người theo dòng chảy của nó. Con người luôn cho rằng mình thông minh, mình tài giỏi, nhưng họ đâu biết rằng mình cũng chỉ như một nhánh cây khô bị dòng nước cuộc đời cuốn đi thôi. Cái mà họ cho là thông minh cũng chỉ là việc họ có bám víu được vào đâu đó, hay rẽ được vào những khúc sông êm đềm thơ mộng hơn thôi. Việc thoát khỏi dòng chảy cuộc đời là hầu như không thể (trừ khi bạn đi tu), tuy nhiên hãy cố gắng giành những khoảng lặng để mình thư giãn, suy tư về cuộc đời.
Ngày tôi sắp về cũng là ngày người ta đã thu hoạch các đám ruộng phía sau. Họ chất thành từng đống rơm lớn dọc bờ. Tôi và thằng Đen chơi trò leo núi, chúng tôi trèo lên đỉnh đống rơm rồi lăn xuống. Một lát sau, thằng Đen có việc phải về nhà, tôi ở lại chơi một mình. Tôi chợt thấy đống rơm kế bên cao và to hơn đống rơm bên tôi đang chơi. Tôi vội chạy qua đống rơm đó, leo lên và lăn xuống. Nhưng khi lăn xuống, tôi lại không có cảm giác mình đã tiếp đất mà thay vào đó là một cảm giác đang lơ lững. Lúc này hồn vía tôi đang bay ở đâu đó mà tôi cũng không biết. Tôi chỉ nhớ là dưới chân tôi là nước là tay tôi đang nắm mấy cọng rơm. Tôi muốn kêu lên nhưng hầu tôi lại không kêu ra tiếng. May mắn thay, lúc đó ba tôi đi lấy rơm ngay chỗ đó, thấy tôi ba tôi kéo tôi lên. Lúc này tôi mới định thần lại. Thì ra là lúc nãy tôi lăn từ trên đống rơm xuống và lăn thẳng xuống giếng. Cũng may là tôi nắm được mấy cọng rơm nên còn đong đưa chưa chìm xuống dưới. Nhưng sau đó ba tôi lấy cây đo chiều sâu của giếng, ba tôi nói nó chỉ cỡ tới thắt lưng ba tôi thôi. Nhưng rõ ràng lúc đó tôi có cảm giác mình đang lơ lửng mà. Tôi không dám lại gần cái giếng đó để kiểm chứng. Bởi tôi đã có một phen hú vía.   
Vậy là cuối cùng cũng đến ngày về, tôi có chút lưu luyến một cuộc sống êm đềm thanh thản. Nhưng tôi phải về để đi học. Tôi tự nhủ hè năm sau mình nhất định trở lại. Nhưng rồi tôi không làm được, và đến bây giờ tôi cũng chưa một lần trở lại nơi đó. 
                                                                                                                                               NNS

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012

GEOCODE ARCGIS

1. Đăt vấn đề
Vị trí luôn giữ một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của con người. Một sự việc đặc biệt diễn ra, một sự cố giao thông, một cửa hàng bán lẻ, một nhà máy sản xuất,… đều gắn liền với vị trí trên mặt đất. Một người quản lý giao thông nếu nắm được vị trí những nơi thường xảy ra kẹt xe thì sẽ áp dụng được các biện pháp chống kẹt xe hiệu quả hơn. Một vấn đề đang được quan tâm của xã hội là tình trạng tai nạn giao thông. Theo thống kê thì số tai nạn giao thông trong những tháng đầu năm 2010 tăng cao hơn so với năm 2009. Vậy một câu hỏi đặt ra là vị trí nào thường xảy ra tai nạn giao thông, bản chất là do đâu , tại sao nơi đó thường xảy ra tai nạn giao thông và có sự liên quan giữa vị trí địa lý và tai nạn giao thông hay không. Muốn giải quyết được câu hỏi đó thì phải mã hóa vị trí những nơi xảy ra tai nạn giao thông lên bản đồ rồi tiến hành phân tích thống kê. Một ví dụ khác trong lĩnh vực nông nghiệp, chuột cắn phá mùa màng và truyền bệnh cho con người. Để có biện pháp đối phó với chúng thì chúng ta phải nắm được vùng hoạt động của chúng. Để có thể xây dựng được bản đồ chuột (rat map) thì phải mã hóa vị trí hoạt động của chuột lên bản đồ rồi thực hiện phân tích không gian để có biện pháp hạn chế hoạt động của chúng. Trong lĩnh vực kinh tế, lý thuyết về vị trí cùng với các nghiên cứu về vị trí từ lâu đã được áp dụng rông rãi trong các phân tích kinh tế. Chẳng hạn trong lĩnh vực bán lẻ thì vị trí cửa hàng đóng vai trò rất quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của cửa hàng. Một cửa hàng nằm ở vị trí thuận tiện giao thông, mọi người dễ nhìn thấy, trong khu vực đông dân cư, phù hợp với phong cách sống của người dân, có bãi đậu xe, và ít đối thủ cạnh tranh thì khả năng thành công sẽ rất cao. Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, từ vị trí những nơi xảy ra dịch bệnh, chúng ta có khoanh được khu vực nhiễm bệnh và những khu vực có nguy cơ lây bệnh. Khi kết hợp vị trí người dân (dữ liệu về nhân khẩu) và dữ liệu giao thông có thể giúp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe xác định được vị trí người bệnh và tìm đường đi ngắn nhất trong trường hợp cấp cứu.
Măc dù rất quan trọng nhưng hầu hết các công ty, dịch vụ ở Việt Nam đều chưa sử dụng vị trí vào trong các bài toán phân tích của mình. Không phải do không nhận thức được vai trò của vị trí mà do thiếu công cụ và thiếu nhân lực để có thể thực hiện các phân tích không gian. Để có thể sử dụng được vị trí trong các bài toán phân tích không gian thì vị trí phải được đưa lên bản đồ. Có nhiều cách thức để đưa  vị trí lên bản đồ như :
+ Thông qua việc số hóa từng điểm. Cách này dễ thực hiện nhưng tốn thời gian và khó khăn khi số lượng điểm lớn
+ Sử dụng GPS. Cách này giúp có ngay tọa độ của các vị trí cần xác định nhưng tốn thời gian đi đo, nếu khu vực đo lớn và tốn chi phi mua máy và phần mềm phân tích không gian.
+ Mã hóa tự động từ địa chỉ. Cách này có điểm mạnh là tận dụng địa chỉ có sẵn, và nó nằm sẵn trong phần mềm giúp phân tích các bài toán không gian sau này là ArcGIS. Tuy nhiên do đặc thù địa chỉ ở mỗi khu vực mỗi khác nên đòi hỏi phải tạo ra một mẫu có khả năng xử lý địa chỉ của khu vực nghiên cứu.
Trong ba cách nêu ở trên thì cách thứ ba sử dụng GeoCode mang nhiều ưu điểm nhất. Thứ nhất, dữ liệu sử dụng là dữ liệu dạng địa chỉ có sẵn, mà dữ liệu địa chỉ dễ đọc dễ hiểu, bất kỳ người nào cũng có thể hiểu nó. Thứ hai, khi sử dụng GeoCode thì tất cả dữ liệu thuộc tính của địa chỉ đều được giữ lại trong lớp điểm tạo thành, điều này tốt hơn khi sử dụng việc xác định vị trí bằng GPS rất nhiều vì khi đó phải nhập lại thuộc tính của từng điểm. Thứ ba là tốc độ xử lý cho việc kết nối địa chỉ lên bản đồ nhanh hơn rất nhiều so với việc phải chấm từng điểm lên bản đồ.  Thứ tư là việc sừ dụng công cụ GeoCode đơn giản hơn rất nhiều so với việc sử dụng một máy định vị GPS cầm tay. Từ các lý luận trên việc tạo ra một address locator style mới cho việc kết nối địa chỉ lên bản đồ là cần thiết.
NNS
Toàn bộ bài viết : Download

MÔ HÌNH VỤ MÙA

1. Giới thiệu
1.1 Mô hình vụ mùa
Trong quá khứ mục tiêu chính của nghiên cứu nông học là tập trung vào bản thân vụ mùa nhưng hiện  nay người ta đã xét đến nhiều yếu tố khác nữa như chất lượng môi trường , lợi ích của vụ mùa,… Vì vậy đòi hỏi những người quản lý nông nghiệp phải có chính sách tối ưu lợi nhuận nhưng vẫn duy trì được chất lượng đất và tối thiểu hoá tác động đến môi trường.
Kỹ thuật sản xuất hiệu quả là quyết định đúng thời điểm và dùng đúng cách. Theo truyền thống thì các hàm tính toán năng suất vụ mùa thường theo kinh nghiệm nghiên cứu nhưng hiện nay các hàm tính năng suất đã sử các phương pháp toán học rõ ràng. Năng suất vụ mùa được thể hiện như là một đa thức hoặc hàm mũ của những biến xác định và các hệ số hồi quy. Tuy nhiên một vấn đề xảy ra là các mô hình tính toán vụ mùa chỉ áp dụng tốt cho các khu vực có điều kiện tương tự như khu vực thí nghiệm xây dựng mô hình.
Những mô hình trong nông nghiệp là những phương trình toán thể hiện sự tương tác bên trong cây và giữa các cây với môi trường. Những mô hình này thường được viết thành các chương trình tính toán để tiện cho người sử dụng. Nhưng do điều kiện mỗi khu vực mỗi khác nên đòi hỏi người sử dụng phải có kiến thức về vấn đề này. Mô hình vụ mùa được xây dựng nhằm để ước tính năng suất có thể thu hoạch được của một loại cây trồng nhất định. Các khía cạnh của những mô hình vụ mùa được mô tả như sau.
i) Mô hình thực tiễn là những mô tả trực tiếp từ dữ liệu quan sát và thể hiện như là phương trình hồi quy ( với một hoặc một vài hệ số) và được sử dụng để tính năng suất cuối cùng. Giới hạn của mô hình này là chỉ áp dụng được trên một khu vực nhất định và không thể áp dụng trên phạm vi toàn cầu.
ii) Mô hình cơ giới : mô tả hành vi của hệ thống theo thuộc tính cấp thấp hơn. Những mô hình này có khả năng mô phỏng các quá trình vật lý, hoá học hoặc sinh học để giải thích bằng cách nào và tại sao có kết quả đó.
iii) Những mô hình tĩnh và mô hình động : Mô hình tĩnh là mô hình không chứa biến thời gian còn mô hình động là mô hình chứa biến thời gian và thể hiện ở các dạng khác nhau.
4i) Những mô hình tiền định và ngẫu nhiên. Mô hình tiền định tạo một dự đoán về số lượng mà không sử dụng bất kỳ phân phối xác suất, variance hay yếu tố ngẫu nhiên nào.
5i) Mô hình mô phỏng và tối ưu. Mô hình mô phỏng hình thành từ một nhóm mô hình được thiết kế nhằm mục đích mô phỏng hành vi của hệ thống. Chúng có thể mô phỏng theo khoảng thời gian ngắn để thể hiện tốt các yếu tố nhưng lại cần rất nhiều dữ liệu đầu vào. Hầu hết các mô hình dùng ước tính năng suất nằm ở loại này. Mô hình tối ưu cung cấp các tuỳ chọn tốt nhất để các thao tác trong mô hình vận dụng tốt nhất
Bảng bên dưới cung cấp một vài mô hình vụ mùa

Software Details
SLAM II Forage harvesting operation
SPICE Whole plant water flow
REALSOY Soyabean
MODVEX Model development and validation system
IRRIGATE Irrigation scheduling model
COTTAM Cotton
APSIM Modelling framework for a range of crops
GWM General weed model in row crops
MPTGro Acacia spp.and Leucaena Spp.
GOSSYM-COMAX Cotton
CropSyst Wheat & other crops
SIMCOM Crop (CERES crop modules) & economics
LUPINMOD Lupin
TUBERPRO Potato & disease
SIMPOTATO Potato
WOFOST Wheat & maize, Water and nutrient
WAVE Water and agrochemicals
SUCROS Crop models
ORYZA1 Rice, water
SIMRIW Rice, water
SIMCOY Corn
CERES-Rice Rice, water
GRAZPLAN Pasture, water, lamb
EPIC Erosion Productivity Impact Calculator
CERES Series of crop simulation models
DSSAT Framework of crop simulation models including
modules of CERES, CROPGRO and CROPSIM
PERFECT
QCANE Sugarcane, potential conditions
AUSCANE Sugarcane, potential & water stress conds., erosion
CANEGRO Sugarcane, potential & water stress conds
APSIM-Sugarcane Sugarcane, potential growth, water and nitrogen stress
NTKenaf Kenaf, potential growth, water stress
1.2 Viễn thám (RS)
Là việc lấy được thông tin của đối tượng ở tỷ lệ lớn hoặc nhỏ bằng việc sử dụng thiết bị ghi nhận thời gian thực (sensor) mà không cần tiếp xúc trực tiếp vào đối tượng. Có hai loại viễn thám chính là viễn thám chủ động và viễn thám bị động. Viễn thám bị động sử dụng bức xạ tự nhiên được phát ra hoặc phản xạ từ đối tượng hoặc xung quanh diện tích được quan sát. Viễn thám chủ động phát ra năng lượng đến đối tượng rồi tiếp nhận năng lượng phản xạ về.
1.3 Hệ thống thông tin địa lý
Là một công cụ nền máy tính có khả năng nắm bắt, lưu trữ, phân tích, quản lý, trực quan dữ liệu địa lý. GIS là một công cụ rất mạnh trong việc thực thi các bài toán liên quan đến không gian như truy vấn không gian, hiệu chỉnh dữ liệu, thể hiện trực quan các kết quả thao tác,…
Như đã nói ở trên hầu hết các mô hình dùng để ước tính năng suất vụ mùa là mô hình mô phỏng vụ mùa, tuy nhiên loại mô hình này đòi hỏi dữ liệu đầu vào phải đủ lớn. RS là nguồn cung cấp dữ liệu lớn và liên tục, GIS có khả năng lưu trữ, xử lý không gian và thuộc tính, do đó việc kết mô hình vụ mùa, GIS và RS được xem là giải pháp có thể tận dụng được thế mạnh của từng thành phần.      
NNS
Xem toàn bộ : Download

PHÂN TÍCH MẠNG VÀ MỘT VÀI THUẬT TOÁN CƠ BẢN



1. Giới thiệu :
      Mạng là hệ thống các đối tượng đường được kết nối với nhau. Việc phân tích hệ thống này gọi là phân tích mạng.
       Phương pháp phân tích mạng giúp giải quyết các bài toán liên quan đến đối tượng đường trên bản đồ. Phương pháp này liên quan đến hai vấn đề : cấu trúc kết nối giữa các đường và sự di chuyển trong hệ thống các đường được kết nối đó.
      Đường trên bản đồ được phân làm hai loại : đường tự nhiên (physical lines) và đường ảo ( virtual lines). Những đường tự nhiên như là các loại đường giao thông và đường ảo như là các đường ranh giới chính trị, ranh giới hành chính. Đường tự nhiên là đối tượng phân tích chủ yếu của phương pháp phân tích mạng.  
2. Nội dung phương pháp phân tích mạng :
2.1 Yêu cầu về dữ liệu :
      Mỗi đường trong hệ thống mạng phải được xác định bằng điểm đầu và điểm cuối bằng điểm cuối có thể qua các điểm đỉnh (vertex).
            Một hệ số cản trở ( impedance factor) cũng được tính đến trong việc phân tích mạng. Chẳng hạn, yếu tố đường một chiều, đường đang sửa chữa có thể được tính như là hệ số cản trở trong việc tìm đường đi ngắn nhất trong hệ thống đường giao thông.

Hình 1 Mạng không tính đến hệ số cản trở



Hình 2 Mạng có hệ số cản trở

Xem toàn bộ tại đây
NNS

Xác định vị trí điện thoại di động

1. Tổng quan
Vấn đề xác định vị trí trong mạng di động không dây có thể xem xét ở 2 mốc quan trọng. Thứ nhất, việc xây dựng hệ thống xác định vị trí xe cộ (Automatic Vehicle Location – AVL) được thực hiện vào những năm 70. Hệ thống này nhằm để xác định vị trí xe cảnh sát và giao thông ở mặt đất trong quân đội. Hệ thống bao gồm một tập những trạm (base station) được xem là những điểm quan sát và sử dụng kỹ thuật AOA (angle of arrival) và TDOA (time difference of arrival) để xác định vị trí. Thứ hai, khi Ủy ban Truyền thông Liên bang Mỹ (Federal Communication Commission- FCC) lệnh cho các nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động xây dựng hệ thống xác định vị trí của điện thoại di động cho dịch vụ khẩn cấp 911. Trong mệnh lệnh của FCC, yêu cầu phải xác định được vị trí của các thuê bao di động gọi tới số 911 với độ chính xác 125m với xác suất 67%.  Khi mệnh lệnh được đưa ra, rất nhiều nghiên cứu đã được thực thi trong giai đoạn này. Sau hơn 5 năm, yêu cầu của FCC đã đạt được và FCC ban hành lệnh mới nhằm tăng độ chính xác định vị (năm 2005). Mong muốn xác định vị trí chính xác cả trong môi trường indoor và outdoor luôn thách thức các nhà nghiên cứu mảng xác định vị trí này.
Ngoài ra, việc xác định vị trí của điện thoại di động còn có thể ứng dụng trong một số lĩnh vực khác. Thứ nhất, quảng cáo trên điện thoại di động (mobile advertising), biết được vị trí của khách hàng giúp cho việc quảng cáo trên điện thoại phù hợp hơn, mang lại hiệu quả cao hơn. Thứ hai, theo dõi tài sản (asset tracking), việc giám sát tài sản có thể thực hiện cả trong môi trường indoor và outdoor. Thứ ba, quản lý hạm đội (fleet management), ứng dụng này có thể dùng trong quân sự như tập trận chẳng hạn hay trong logistics. Thứ tư, tính hóa đơn điện thoại, việc xác định được vị trí khách hàng giúp nhà cung cấp mạng dễ dàng hơn trong việc tính toán hóa đơn điện thoại. Hay ứng dụng kỹ thuật xác định vị trí dựa trên mạng không dây có thể dùng để xác định vị trí các sensor trong mạng lưới sensor giám sát môi trường. Và còn nhiều ứng dụng khác.
Cũng trong những năm 90, hệ thống định vị toàn cầu GPS được xây dựng hoàn chỉnh (1994 với đầy đủ 24 vệ tinh) và bắt đầu đưa vào sử dụng. Khi phục vụ cho dân sự, GPS nhanh chóng được chú ý và đã được hầu hết các nước trên thế giới đón nhận. Rất nhiều những ứng dụng ngày nay ở các nước phụ thuộc vào hệ thống này. Tuy nhiên, vẫn còn đó nhiều trở ngại khi sử dụng GPS. GPS hoạt động đòi hỏi việc thu nhận tín hiệu line-of-sight (LOS) từ vệ tinh GPS, do đó nó sẽ không hoạt động tốt khi có sự cản trở của thực vật, những tòa nhà hay những trở ngại khác. Chi phí cho thiết bị GPS cầm tay không lớn nhưng việc trang bị nó cho một số lượng lớn những đối tượng cần giám sát thì đó là một khoảng đầu tư không nhỏ.
2. Về phân loại
Kỹ thuật xác định vị trí dựa trên điện thoại di động có thể được phân loại theo đối tượng tham gia vào quá trình xác định vị trí như : xác định vị trí dựa trên mạng (network-based), dựa trên thiết bị (handset-based), dựa trên SIM (SIM-based), và kỹ thuật tổng hợp thiết bị và mạng (hybrid).  Network-based tận dụng cơ sở hạ tầng của nhà cung cấp điện thoại di động để xác định vị trí điện thoại di động. Vấn đề khó khăn trong loại này là phải được sự giúp đỡ của nhà cung cấp mạng. Handset-based đòi hỏi phải cài đặt phần mềm vào thiết bị di động. Việc cài đặt phần mềm lên từng điện thoại sẽ ảnh hưởng đến chính sách riêng tư của các nhân sử dụng điện thoại và các phần mềm này có thể tiêu thụ pin của điện thoại. SIM-based là việc đo lường sóng radio thô từ thiết bị di động thường sử dụng trong mạng GSM (System for Mobile Communications) và UMTS (Universal Mobile Telecommunications System). Tùy vào nhà cung cấp mạng mà có SIM khác nhau nên việc xác định vị trí cũng khác nhau. Kỹ thuật hybird là việc kết hợp của 2 hay nhiều yếu tố đã nêu ở trên trong việc xác định vị trí mobile.
Việc phân loại ở trên dựa theo định nghĩa trên trên wikipedia, nhưng qua việc khảo sát những bài báo trong lĩnh vực này, người ta thường không quan tâm nhiều đế sự phân chia đó. Điều quan tâm lớn nhất là độ chính xác của việc xác định vị trí bởi trong các kỹ thuật này thường cho độ chính xác không cao.
3. Các kỹ thuật cơ bản
Kỹ thuật xác định vị trí dựa trên tín hiệu sóng điện thoại di động dựa trên bốn cách thức cơ bản : góc tới (Angle of Arrival - AOA) , thời gian tới (Time of Arrival - TOA), cường độ tín hiệu (Signal Strength) và sự phối hợp các kỹ thuật. Kỹ thuật dựa trên AOA xác định góc bằng cách so sánh hướng truyền sóng và một hướng tham khảo. Hướng tham khảo thường được chọn là hướng Bắc. Góc hợp bởi hướng truyền sóng và hướng Bắc gọi là góc tuyệt đối, còn góc hợp bởi 2 hướng truyền sóng gọi là góc tương đối. Sự định hướng là sự xác định được hướng của đối tượng cần xác định vị trí so với hướng Bắc. Trong trường hợp sự định hướng đã biết, xem xét hình đơn giản sau :
Trong đó, u là đối tượng cần xác định vị trí, b1, b2 là trạm đã biết vị trí. ▲θ là góc định hướng của đối tượng. Khi đó, góc tới tuyệt đối của trạm b1 là (θ1+▲θ), do đó vị trí của đối tượng sẽ nằm trên tia xuất phát từ trạm 1 hợp với hướng Bắc 1 góc bằng (θ1+▲θ). Tương tự, từ trạm thứ hai chúng ta có vị trí đối tượng nằm trên tia hợp với hướng Bắc góc (θ2+▲θ). Giao của 2 hướng này sẽ giúp xác định vị trí đối tượng.
Trường hợp sự định hướng tại đối tượng không biết, chúng ta xem xét hình sau :
Trong hình trên, những góc b1ub2, b1ub3, b2ub3 là những AOA tương đối. Kiến thức hình học cơ bản cho thấy những góc trên đường tròn căng cùng 1 dây cung thì chúng sẽ bằng nhau. Trong hình trên, góc b1ub2 căng dây cung b1b2 nên vị trí đối tượng u sẽ nằm trên cung b1b2, tương tự, vị trí đối tượng u cũng nằm trên cung b2b3 và cung b1b3. Giao của 3 cung này sẽ xác định được vị trí đố tượng u.
Kỹ thuật dựa trên TOA là việc xác định vị trí đối tượng dựa trên thời gian tới của tín hiệu. Để thực hiện kỹ thuật này đòi hỏi phải đồng bộ về thời gian giữa các trạm. Trong ví dụ minh họa dưới đây sử dụng thời gian tới của tín hiệu tại 3 trạm khác nhau. Bởi vì tín hiệu truyền với vận tốc ánh sáng (c=300.000 km/s) nên khoảng cách giữa đối tượng và 1 trạm là :
ri=(ti-t0)*c , i=1,2,3
Trong đó, t0 là thời gian bắt đầu truyền sóng và ti là thời gian nhận được sóng tại trạm hay gọi là thời gian tới (TOA). Các khoảng cách r1, r2, r3 được sử dụng để tính tọa độ đối tượng u (xm,ym) bằng cách giải hệ sau :
r12=xm2 + ym2
            r22 =(x2-xm)2+(y2-ym)2
           r32=(x2-xm)2+(y2-ym)2
Dễ dàng thấy được các phương trình trên là những phương trình đường tròn nên nghiệm của chúng là giao của 3 đường tròn đó. Từ đó vị trí của đối tượng sẽ được ước tính.
Kỹ thuật dựa trên cường độ tín hiệu (Signal Strength - SS) là việc xác định vị trí dựa trên cường độ tín hiệu có thể là tín hiệu nhận tại trạm. Phương pháp này có độ chính xác kém hơn so với các phương pháp trên nhưng việc thực hiện nó đơn giản và có chi phí thấp. Nguồn sai số phần lớn của phương pháp này là do ảnh hưởng của các yếu tố môi trường như hiện tượng đa đường (multipath), hay sóng bị hấp thụ bởi các vật liệu, none-line-of-sight (NLOS), … Để thể hiện đôi nét về ý tưởng của việc xác định vị trí sử dụng RSS, thuật toán Range-free được sử dụng để xem xét. Thuật toán được mô tả như sau. Cho một tập những trạm với vị trí đã biết bi, và một đối tượng cần xác định vị trí u. Mỗi trạm sẽ nhận tín hiệu đến từ các trạm khác và từ đối tượng u. Tín hiệu đến tại 1 trạm có thể chia làm 2 nhóm. Nhóm 1 có giá trị không lớn hơn giá trị tín hiệu nhận tại trạm của đối tượng u. Và nhóm 2 có giá trị lớn hơn tín hiệu nhận tại trạm của đối tượng u. Bởi vì thuật toán này giả sử khoảng cách là 1 hàm của tín hiệu : khoảng cách càng xa tín hiệu càng nhỏ, do đó, giá trị lớn nhất trong nhóm 1 sẽ có vị trí gần với đối tượng u nhất và sẽ xác định một vòng tròn tâm tại trạm và có bán kính R1. Tương tự, giá trị nhỏ nhất trong nhóm 2 cũng sẽ có vị trí gần đối tượng u nhất và sẽ xác định vòng tròn bán kính R2. Hai vòng tròn xác định bởi vòng tròn bán kính R1 và vòng tròn bán kính R2 sẽ xác định cận dưới và cận trên của vị trí đối tượng u. Lặp lại quá trình trên tất cả các trạm sẽ xác định được khu vực là giao của tất cả các vòng tròn. Tâm trọng lực (center of gravity) của phần giao này chính là vị trí đối tượng u cần tìm.
Hình bên trên thể hiện thuật toán vừa nêu, với 3 trạm A,B,C và đối tượng chưa biết vị trí U.
Tóm lại, ba kỹ thuật được nêu ở trên chỉ để minh họa vài nét về các kỹ thuật. Trong mỗi kỹ thuật có rất nhiều nghiên cứu để có thể cải thiện độ chính xác trong vấn đề xác định vị trí. Ngoài ra còn có các kỹ thuật là sự cải tiến hay xem xét các khía cạnh khác của các kỹ thuật trên như : TDOA (Time Difference of Arrival), UTDOA (Uplink Time Difference of Arrival), EOTD (Enhanced Observed Time Difference), Location Fingerprinting (LF), …
Ngoài ra còn có một kỹ thuật đơn giản dựa trên đặc trưng của mạng điện thoại di động là Cell Site Identification (Cell ID). Mạng di động thường được phân chia thành những hình lục giác. Mỗi hình lục giác thường sẽ có 1 trạm thu phát sóng. Vị trí của điện thoại sẽ được xác định trong một hình lục giác dựa trên tín hiệu mà nó kết nối với trạm (bởi điện thoại di động sẽ kết nối với trạm gần nó nhất). Độ chính xác của kỹ thuật này phụ thuộc vào kích thước hình lục giác. Kích thước hình lục giác thường từ 100m – 3000m.
Mặt khác, một số kỹ thuật xác định vị trí có được dựa trên sự tổng hợp các kỹ thuật có sẵn nhằm tận dụng thế mạnh của các kỹ thuật và hạn chế các yếu điểm của chúng như TDOA kết hợp với AOA chẳng hạn.
                                                                                                                          NNS

Tài liệu tham khảo :
Caffery, J. J. & Stuber, G. L. (1998). Overview of radiolocation in CDMA Cellular systems. IEEE Communication Mag., 36, 4, 38-45Sayed, A. H., Tarighat, A. & Khajehnouri, N. (2005). Network-Based Wireless Location: Challenges faced in developing techniques for accurate wireless location information. IEEE Signal Processing Mag.
Rong Peng and Mihail L (2006). Sichitiu. Angle of Arrival Localization for Wireless Sensor Networks. Sensor and Ad Hoc Communications and Networks, 2006. SECON '06. 2006 3rd Annual IEEE Communications Society on, vol.1, Issue 28.

PS: Và một số tài liệu khác, tôi không nhớ nữa, nói chung tất cả đều là tôi tổng hợp lại.

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2012

Coi bói


Mặc dù khoa học hiện nay rất tiến bộ, nhận thức của con người ngày càng cao nhưng những chuyện bói toán lại càng chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống hàng ngày. Nếu muốn cất nhà, người ta đi coi ngày. Nếu muốn kết hôn, người ta cũng đi coi tuổi, coi ngày. Coi ngày cất nhà thì tôi không nói gì, bởi hôm nay cất không được thì ngày mai, năm nay không cất được thì năm sau. Điều đó không thành vấn đề. Còn chuyện bói các vấn đề liên quan đến hôn nhân mới đáng nói. Hai người quen nhau bao nhiêu năm, về nhà mẹ (thường là mẹ chứ không phải ba) nhà trai hoặc nhà gái đi coi bói thấy tuổi không hợp thì ngăn cản. Mà sao là không hợp ? Không hợp là hai người nếu đến với nhau thì sống không hạnh phúc, cãi vã nhau suốt ngày, nghèo khổ, hoặc nặng hơn nữa là người này “khắc” người kia chết. Tự nhiên một người sống thì không sao nhưng nếu cưới nhau tự nhiên người kia chết. Cái chỗ này tôi cũng không hiểu nổi nữa. Nhưng thầy bói nói thế và người ta tin. Mà tin thì sẽ ngăn cản. Dùng biện pháp mạnh như cấm không cho gặp mặt, bắt phải chia tay, giới thiệu người khác, …Một số trường hợp không cấm được thì vẫn để 2 đứa quen nhau nhưng lại không thèm để ý tới. Tệ hơn nữa, nếu nói không nghe thì bắt nhốt chúng lại là xong.
Vậy tại sao người ta lại tin ? Có thể do ảnh hưởng của những người thân đi trước, ông bà ảnh hưởng lên cha mẹ, cha mẹ ảnh hưởng lên con cái. Hoặc do tuổi tác, khi con người ta càng nhiều tuổi, thì họ có xu hướng tin vào những đều huyền bí. Như thầy dạy triết học tôi từng nói là khi nào mà các bạn muốn tìm hiểu về tôn giáo, tin vào những điều huyền bí là khi đó các bạn đã già rồi. Trong cuộc sống có rất nhiều chuyện không thể kiểm soát được. Làm ăn lúc lên lúc xuống. Lúc nghèo, lúc giàu. Không kiểm soát được nên người ta nhờ vào thế lực siêu nhiên để giải thích, để củng cố niềm tin. Và dần dần trở nên tin quá độ. Cụ thể, những người càng giàu có thì họ càng vung nhiều tiền để thờ cúng thần này thần nọ. Mà họ đâu biết rằng nếu dùng tiền đó giúp người nghèo thì họ sẽ nhận được phúc còn nhiều gấp bội.
Hậu quả của việc quá tin vào vấn đề coi bói thì rất nhiều. Tôi có thể nêu một vài ví dụ ở đây. Bị gạt tiền là vấn đề đầu tiên được nhắc đến. Bói thông thường dựa vào quy luật âm dương, ngũ hành, bát quái, hay gì gì đó để tính ra các tuổi hợp hay không hợp, ngày tốt hay ngày xấu trong hôn nhân. Bởi trong các quy luật đó cho rằng có sự tương sinh, tương khắc giữa các yếu tố. Việc tính toán là một vấn đề vô cùng phức tạp. Nếu ai muốn tìm hiểu thì tham khảo cuốn “Kinh dịch – đạo của người quân tử” do Nguyễn Hiến Lê dịch tại đây : http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nqnnntntn31n343tq83a3q3m3237nnn hoặc có thể liên hệ với tôi, tôi còn vài cuốn nữa. Đọc để biết là tính không đơn giản. Và chắc gì những người thầy đó, biết tính và tính đúng. Một hậu quả khác nghiêm trọng hơn nhiều là nếu gia đình ngăn cấm quá mức thì dễ dẫn đến những hành động thiếu suy nghĩ của các bạn trẻ (tuổi trẻ luôn thiếu suy nghĩ mà). Rất nhiều vụ đã xảy ra, và sau đó, rất nhiều các bậc cha mẹ đã hối hận. Báo chí cũng đã đưa tin rất nhiều mà.
Lời kết, tôn giáo cũng có niềm tin cho chúng ta khi chúng ta đánh mất niềm tin. Tôn giáo giúp cho tinh thần con người trở nên thanh thản và hướng thiện. Vì vậy, hãy tín ngưỡng tôn giáo theo những ý nghĩa tích cực đó. Chuyện quỷ thần người xưa dựng nên hòng răn đe người đời phải biết hướng thiện để có cuộc sống tốt đẹp hơn. Vì vậy hãy tin theo hướng tích cực đó. Tôi tin tôn giáo, tôi tin phong thủy, tôi tin những chuyện kỳ bí nhưng theo nghĩ tích cực và mong mọi người cũng thế.
                                                                                                                    NNS