Trong
năm 1854, John Snow đã thể hiện sự bùng phát bệnh dịch tả ở Luân Đôn bằng việc
sử dụng các điểm (points), các điểm này thể hiện vị trí của từng trường hợp cụ
thể. Đây có thể xem là việc sử dụng phương pháp địa lí sớm nhất. Nghiên cứu của
Snow về sự phân bố bệnh dịch tả dẫn ông đến nguồn gây bệnh, một máy bơm nước bị
ô nhiễm nằm tại vị trí trung tâm của đợt bùng phát dịch tả này.
Trong
khi những thành phần cơ bản liên quan đến địa hình (topography) và những chủ đề
đã có sẵn trước đó trong ngành bản đồ, thì bản đồ của Snow là duy nhất bởi lần
đầu tiên sử dụng những phương pháp bản đồ không chỉ để thể hiện mà còn để phân
tích nhóm (cluster) những vấn đề liên quan đến địa lý. Những năm đầu thế kỷ 20 đã chứng kiến sự phát triển của ngành thuật in ảnh bằng bản kẽm (photozincography), kỹ thuật này cho phép những bản đồ được chia thành các layer, chẳng hạn 1 layer về thực phủ, một layer về sông ngòi,... Kỹ thuật này đặc biệt được sử dụng cho việc in những đường đồng mức (contours) (bởi việc vẽ những đường này rất khó khăn và việc chia thành layer riêng giúp tránh được sự nhầm lẫn của người vẽ). Công việc này trước kia được vẽ trên những tấm kính nhưng sau đó, film nhựa (plastic film) được sử dụng do ưu điểm là nhẹ hơn, chiếm ít không gian lưu trữ và ít giòn hơn. Khi tất cả các layer được hoàn thành, chúng sẽ được kết hợp vào trong 1 ảnh sử dụng một camera chuyên dụng lớn (gọi là process camera). Khi màu được đưa vào, ý tưởng về việc chia thành từng lớp cũng được sử dụng để tạo ra các màu in riêng biệt. Khi mà việc sử dụng layer trở thành trở thành một trong những đặc trưng điển hình của GIS hiện đại, thì quá trình chụp ảnh được mô tả ở trên không được xem xét trong GIS.
Sự phát triển của phần cứng máy tính được thúc đẩy bởi nghiên cứu vũ khí hạt nhân dẫn đến những ứng dụng của việc thành lập bản đồ trên nền máy tính trong đầu những năm 1960.
Năm 1960 cũng chứng kiến sự phát triển của việc vận hành GIS thực sự ở Ottawa, Ontario, Canada của Cục Lâm Nghiệp và Phát triển Nông thôn Liên bang. Được phát triển bởi tiến sĩ Tomlinson, khi đó nó được gọi là Hệ thống thông tin địa lý Canada (CGIS) và được sử dụng để lưu trữ, phân tích, và thao tác trên dữ liệu được thu thập cho Canada Land Inventory (một nỗ lực xác định khả năng sử dụng đất cho vùng nông thôn Canada bằng việc thành lập bản đồ thông tin về thổ nhưỡng, nông nghiệp, giải trí, cuộc sống hoang dã, lâm nghiệp, và sử dụng đất ở tỷ lệ 1:50.000. Một nhân tố đánh giá sự phân loại cũng được đưa vào trong phân tích.
CGIS là một sự cải tiến những ứng dụng vẽ bản đồ trên nền máy tính khi nó cung cấp khả năng chồng lớp (overlay), đo lường và quét/số hóa. Nó hỗ trợ một hệ thống tọa độ quốc gia mà bao phủ toàn bộ lục địa, những đường được mã hóa gọi là arc có quan hệ (topology) với nhau và nó lưu trữ thông tin vị trí và thuộc tính trong những file khác nhau. Và do đó, Tomlinson được coi là cha đẻ của GIS, đặc biệt là việc ông sử dụng chồng lớp trong việc thúc đẩy phân tích không gian của dữ liệu địa lý.
CGIS tồn tại đến những năm 1990 và đã xây dựng một CSDL về tài nguyên đất ở dạng số rất lớn ở Canada. Nó được phát triển như là một hệ thống khung nền trong việc hỗ trợ tỉnh và liên bang trong việc quy hoạc và quản lý tài nguyên. Sức mạnh của nó được thể hiện ở việc phân tích trên khu vực lục địa rộng lớn với CSDL phức tạp. Và CGIS không bao giờ trở thành hệ thống thương mại được.
Trong năm 1964, Howard T. Fisher lập phòng thí nghiệm Đồ họa máy tính và phân tích không gian ở Harvard Graduate School of Design, nơi mà một số quan trọng những khái niệm trong kiểm soát dữ liệu không gian được phát triển và trong những năm 1970, đã phân phối mã nguồn và hệ thống phần mềm như SYMAP, GRID, và ODYSSEY (được xem là nguồn của các sự phát triển các phần mềm thương mại ngày nay).
Đầu những năm 1980 M&S Computer (mà sau này trở thành Intergraph) cùng với Bentley Systems Incorporated xây dựng nền tảng CAD, (Environmental Systems Research Institute) ESRI, (Computer Aided Resource Information System) CARIS, (Earth Resource Data Analysis System) ERDAS nổi lên như những phần mềm thương mại GIS, đã thành công trong việc kết hợp nhiều đặc trưng của CGIS, kết hợp phương pháp thời kỳ đầu là tách thông tin không gian và thuộc tính với phương pháp thời kỳ thứ hai là sắp xếp thuộc tính vào trong những cấu trúc CSDL. Song song đó, sự phát triển của hai hệ thống công cộng (MOSS và GRASS GIS) bắt đầu từ những năm 1970 đến đầu những năm 1980.
Cuối thế kỷ 20, sự phát triển nhanh chóng của những hệ thống khác nhau đã được hợp nhất và chuẩn hóa trên một vài nền tảng và người sử dụng bắt đầu khám phá khái niệm dữ liệu GIS thông qua Internet, đòi hỏi chuẩn dữ liệu và cách thức truyền dữ liệu. Gần đây, sự phát triển của các gói phần mềm mã nguồn mở chạy trên nhiều hệ điều hành và có thể tùy biến để thực thi những nhiệm vụ cụ thể.
Dịch từ : http://en.wikipedia.org/wiki/Geographic_information_system
Bài viết tuy hơi lộn xộn nhưng phần nào thể hiện được lịch sử GIS, hiện nay thì WebGIS đã trỏ nên rất quen thuộc với mọi người. Và tôi thấy người ta cũng bắt đầu đề cập đế Cloud GIS. Lâu rồi không có thông tin, ây da tụt hậu rồi.
NNS
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét