Trang

Thứ Tư, 15 tháng 2, 2017

Kỷ niệm về một chuyến đi

Lần đầu đi du lịch xa, lại đi 1 mình nên quả thật rất đáng nhớ.
Chuyến đi dự kiến xuất phát tại sân bay lúc 9h, đòi hỏi phải có mặt lúc 7h. Tôi ở dưới quê nên 4h tôi phải xuất phát. Đến sân bay khoảng 7h, tôi điện thoại cho hướng dẫn viên (HDV), anh ta đã có mặt ở đó nhưng nói là chuyến bay phải dời lại 1 tiếng (tức là 10h). Anh ta nói đã gọi điện thoại thông báo cho từng người trong đoàn, nhưng không ai bắt máy (cái này là anh ta xạo thôi, chứ thực ra có ai nhận được cuộc gọi nào đâu). Tôi và anh HDV ngồi chờ đến hơn 8h, một số người trong đoàn đã tới, anh ta dẫn chúng tôi vào bên trong làm thủ tục và gởi hành lý. Lần đầu vào sân bay nên cảm giác tôi hơi bất ngờ, bên trong mọi người đi đi lại lại, trò chuyện với nhau, cũng có người mệt quá nằm ngủ trên mấy cái ghế. Lúc này đoàn của tôi hầu như đã có mặt đầy đủ, ai cũng đi với gia đình, cười nói vui vẻ, có tôi 1 mình ngồi ở 1 góc chờ, hơi buồn nhưng tôi không để ý lắm, bởi trước mặt tôi còn nhiều thứ lạ lẵm để nhìn, tôi cũng không có thời gian để buồn. Cảm giác của tôi lúc đó là không ngờ bên trong này lại lớn vậy (nhưng sau đó tôi mới biết nó rất nhỏ so với sân bay Hong Kong). Qua hải quan kiểm tra, lại tiếp tục ngồi chờ cho đến giờ bay, ngồi trong phòng chờ này có thể nhìn thấy máy bay qua cửa kính, nhưng tối quá cũng không thấy rõ nữa. Gần đến giờ, tôi đi qua cổng soát vé, lên xe buýt chở ra máy bay. Khi lên
máy bay, tôi lại thêm điều bất ngờ, máy bay quá nhỏ so với những gì tôi nghĩ.Sau một hồi bị đổi chỗ liên tục (tại mấy người trong đoàn muốn ngồi chung với người thân, nên đá tôi qua lại như trái banh), tôi ngồi ghế ngoài lối đi giữa.
Sau khi tiếp viên hàng không hướng dẫn vài điều cơ bản, máy bay cất cánh. Đúng là khó chịu thật, tôi cảm thấy trong người lâng lâng, đầu óc quay cuồng. Sau một hồi hít thở, và máy bay đã ổn định, thì tôi cảm thấy bình thường trở lại. Lúc này các tiếp viên phục vụ ăn khuya. Máy bay cứ thế bay. 2h, cơ trưởng thông báo đã tới sân bay Hong Kong, nhưng máy bay không đáp xuống được. Bởi vì ở Hong Kong đang có bão, sân bay ngưng hoạt động. Thế là máy bay cứ đảo lòng vòng, khiến đầu óc tôi càng quay lòng vòng, tôi chụp cái bịt vì sợ mình không chịu nổi sẽ ói. Khoảng 30 phút sau, thông báo từ sân bay cho phép hạ cánh. Nhưng khi máy bay đã hạ cánh, sân bay lại thông báo cầu thang chưa hoạt động, nên tiếp tục ngồi trong máy bay chờ. Khoảng 3h30, cầu thang được lắp ghép, tôi theo đoàn người vào sân bay Hong Kong. Không biết người ta để máy lạnh thế nào, mà tôi cảm thấy rất lạnh, run liên tục, đi muốn không nổi nữa. Nhớ lại cảm giác lúc đó, đúng là kinh khủng thật. Nhưng chuyện kinh khủng hơn còn ở phía trước. Để làm thủ tục nhập cảnh, tôi phải xếp rồng rắn rất dài, mà mãi tới 6h30 (nghĩa là hơn 3h mới xong) mới qua được cổng đó. Đúng là một đêm kinh hoàng. Đáng lẽ là về khách sạn sớm thì sáng này sẽ đi tham quan, nhưng cả đêm không ngủ lại xếp hàng mệt mỏi, nên buổi sáng mọi người ở khách sạn ngủ.

Khách sạn tôi ở khá đẹp, ở giữa khách sạn là hồ bơi, phía sau là 1 cái hồ lớn, nên không khí rất trong lành. Nghe nói nó tiêu chuẩn 4 sao, nhưng nó chỉ nhận mình là 3 sao. Có thể do thiếu cái gì đó.
Đường sá ở Hong Kong chủ yếu là đường 1 chiều, những cầu cầu bắc qua biển, hầm chui qua núi, hầm chui
biển. Ở đây chủ yếu là xe ô tô, tôi không thấy chiếc xe máy nào. Điều này trái ngược ở Việt Nam,
xe máy khủng khiếp. Không khí ở đây rất trong lành, ô tô chạy nhiều nhưng rất ít khói bụi, nghe HDV nói ở đây xe không chạy bằng xăng. Hút thuốc chỉ được phép ở cạnh thùng rác thôi. ^_^. Vui nhỉ, ở Việt Nam mà cũng vậy thì đỡ phiền toái về khói thuốc rồi. Khung cảnh ấn tượng ở đây là các chung cư cao tầng mọc xen
kẽ với đồi núi và biển. Nói chung là rất hùng vĩ.

Buổi trưa bữa đầu tiên, cả đoàn đi ăn tại một nhà nhà nằm trên 1 chiếc tàu. Phải đi tàu ra đó, dọc hai bên đường đi, rất nhiều du thuyền neo đậu. Người ở đây thường chứng tỏ đẳng cấp bằng du thuyền mà, ai có du
thuyền để đây mới coi là giàu. Mấy du thuyền này để chưng cho có chứ ít khi có ai đi lắm. Tôi có chụp một vài bức ảnh làm kỷ niệm nhưng nó không đẹp lắm, có thể do tôi không biết chụp và máy ảnh cũng không được tốt cho lắm.

Thăm Vịnh Nước Cạn và Miếu Thần Tài. Nghe HDV nói biển khu này là do mua đất ở nước ngoài về đổ xuống, tạo ra bãi biển cho người ta tắm, nhưng chỉ tắm trong phạm vi cái lưới thôi. Người ta sợ cá mập. Miếu Thần Tài ở kế bên đó, HDV bày cho mọi người lấy tờ tiền xoa từ đầu xuống chân Thần Tài rồi
đút vào túi, đem về sẽ có tài lộc. Mọi người xúm lại làm theo, tôi không có ý kiến về chuyện này, nên không làm theo. Ngoài ra còn có Nguyệt Lão, cầu Trường Thọ,…Nói chung chủ yếu là lạ chứ không đẹp đối với tôi, bởi ở Việt Nam có nhiều chỗ tham quan còn đẹp hơn nhiều.
Bảo Tàng Sáp là trạm dừng kế tiếp, nơi đây trưng bày tượng sáp của những người nổi tiếng, bạn có thể thoái mái chụp ảnh với bất cứ ai, ngoại trừ Thành Long. Nếu bạn chụp với Thành Long thì sẽ phải trả tiền. Nếu bạn muốn nhờ người trong bảo tàng chụp dùm, họ sẽ chụp, và đưa cho bạn mã số, khi ra khỏi Bảo Tàng sẽ dùng mã số đó để lấy hình. Một tấm hình bình thường khoảng 100HK$, càng lớn tiền càng nhiều. Tôi tranh thủ tự chụp một vài tấm.
Buổi chiều ghé Đại lộ Ngôi Sao, tôi hơi mệt, nên đi ra ngoài đó gió biển thổi ào ào, lạnh quá nên tôi đi vào trong xe ngồi. Cũng không quên chụp vài tấm làm kỷ niệm.
Sau khi ăn tối, địa điểm phải đến tiếp theo là chợ quý bà. Có lẽ đoàn Việt Nam nào qua cũng ghé ở đây nên khi đi vào chợ, tôi thấy một băng rôn rất lớn treo ở giữa lối vào “Phở Việt Nam” bằng tiếng Việt. Đúng là hay thật. Nói chung khu vực này rất đông, bán đủ thứ đồ, từ đồ chơi trẻ em, đến hàng công nghệ như điện thoại các loại. Quần áo giày dép hàng hiệu thì thiếu gì. Tôi chỉ đi xem cho biết chứ không mua gì. Những
nghệ sĩ đường phố cũng biểu diễn khá nhiều ở đây. Từ anh mãi võ đến những ca sĩ, nhóm nhạc đều thu hút rất nhiều người xem. Tôi để quên máy chụp hình trên xe nên không chụp được tấm nào ở đây. Hơi đáng tiếc.

Nhớ ngày xưa quá, bấy lâu nay cứ loay hoay lo đi làm, mà quên mất những thứ mình thích, những thứ mình dự định làm từ lúc còn đi học. Nhớ.

NNS

Thứ Năm, 2 tháng 8, 2012

Đi xem phim trong rạp

    Đi vô rạp coi phim không còn xa lạ với mọi người nhất là những người sống ở các thành phố lớn. Tôi còn nhớ một lần đi xem phim Kungfu Panda 2 với bạn tôi. Tôi xem tại 1 rạp khá lớn. Trên vé ghi giờ chiếu là 8h. Đúng 8h tôi vào ghế ngồi nhưng thật lạ là trong rạp rất ít người. Có lẽ những người ở đây đã quá hiểu chuyện này rồi nên họ đến muộn. Đúng 8h chiếu phim nhưng không phải phim tôi coi mà là quảng cáo. Nào là nước ngọt, bánh snack,...và quảng cáo phim. Cảm giác giống như mình bỏ tiền vô rạp xem quảng cáo vậy. Vấn đề này không xa lạ với tôi, bởi ở nhà xem truyền hình cáp phải trả tiền nhưng vẫn quảng cáo đầy dẫy đó. Trước phim quảng cáo, giữa phim quảng cáo, kết thúc phim quảng cáo. Có khi cứ chiếu chừng 15 phút là quảng cáo. Nhưng tiền thuê bao truyền hình cáp không nhiều lắm nên thôi kệ nhắm mắt chấp nhận. Nhưng đằng này vô rạp mua một vé gần bằng 1 tháng xem truyền hình cáp ở nhà để xem quảng cáo. Nhưng cũng đành chịu, chẳng biết kêu ai, cắn răng chịu đựng thôi.
   Nói về quảng cáo, nếu như quảng cáo nước ngọt, hay các sản phẩm tiêu dùng thì mặc dù chói mắt thật nhưng còn đỡ hơn khi coi quảng cáo phim. Tôi đi coi Kungfu Panda 2, là một bộ phim hoạt hình được rất nhiều người yêu thích, đặc biệt là trẻ em. Nên cũng dễ hiểu là khi đó trong rạp rất nhiều trẻ em. Thế nhưng không biết những người biên tập đoạn quảng cáo đó nghĩ thế nào mà lại quảng cáo phim Việt Nam. Không phải tôi chê phim Việt Nam, mà phim Việt Nam ra rạp bây giờ toàn là những phim lấy chủ đề da thịt. Khán giả chủ yếu là con nít vậy mà chiếu trailer phim Việt Nam đó toàn những cảnh không phù hợp. Một lần nữa chỉ biết nhìn mấy đứa trẻ hồn nhiên rồi lắc đầu ngán ngẩm.
   Về phim, tôi thấy sự khác một cách đáng ngạc nhiên về cái cách người ta xem phim. Tôi còn nhớ ngày đó, đài truyền hình chiếu phim Những cuộc phiêu lưu của Sinbad, báo chí lúc đó kêu ca trách mắng nhà đài rất nhiều về phim đó. Bởi họ nói trong phim diễn viên ăn mặc quá hở hang. Nếu bạn có xem phim đó thì bạn cũng biết, diễn viên mặc váy, hoặc phần trên mặc như bikini. Trong phim, các diễn viên diễn cảnh nóng lắm cũng là hai diễn viên hôn nhau. Còn bây giờ thì sao, xem một số phim Việt Nam bạn sẽ biết. Mệt (đó cũng là lý do vì sao tôi thích coi phim hoạt hình hơn, vừa vui vừa trong sáng). Tại sao bây giờ người ta không trách mắng như hồi đó, tôi không biết, có thể người ta sống thoáng gì đó. Nhưng tôi chỉ thấy một sự vô trách nhiệm đối với trẻ em.
Người lớn ơi hãy tạo cho trẻ em một tâm hồn trong sáng thơ ngây.
NNS

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

Geosimulation


Đây là một lĩnh vực rất khó. Tôi tò mò nên đọc qua cho biết. Bên công nghệ thông tin thì tôi không biết sao, chứ bên lĩnh vực thông tin địa lý thì tôi chưa thấy có nghiên cứu nào về lĩnh vực này ở Việt Nam (ở trường tôi học cũng không thấy và các bài báo trong hội nghị GIS toàn quốc năm rồi (2011) tôi cũng không thấy). Tình cờ trong lúc tìm kiếm tài liệu làm luận văn tôi phát hiện lĩnh vực này. Bây giờ rãnh rỗi tìm hiểu cho vui. Phần này chủ yếu là tổng hợp những gì tôi đọc được (thường tôi đọc tài liệu, sau đó tôi sẽ tóm lược lại để dễ nhớ). Paul M. Torrens là cái tên tôi thấy xuất hiện nhiều trong lĩnh vực này.
Nhìn vào thuật ngữ chúng ta cũng có thể thấy đó là sự kết hợp của 2 lĩnh vực khoa học thông tin địa lý (geo) và khoa học máy tính (simulation). Geosimulation nhìn các vấn đề như là kết quả của một tập hợp các sự vận động của những đối tượng tương tác nhau, trong vấn đề về đô thị thì các đối tượng này thường là cá nhân hộ gia đình, con người, và đơn vị bất động sản hay theo thời gian bằng cách tiếp cận thời gian thực. Geosimulation giống với phương pháp truyền thống là microsimulation, nhưng có một vài điểm giúp chúng ta phân biệt hai loại này :
+ Thứ nhất là đơn vị không gian
+ Thứ hai là liên quan đến những mối quan hệ không gian.
+ Thứ ba là thời gian
+ Thứ tư là mục tiêu của sự mô phỏng.
Nghiên cứu trong geosimulation hầu hết tập trung vào những kỹ thuật cải tiến công nghệ mô phỏng không gian : nguồn gốc của những thuật toán mới phục vụ việc xử lý không gian, phương pháp luận mới về khái niệm những thực thể không gian và những mối quan hệ giữa những thực thể đó, ứng dụng những mô hình mô phỏng trong những vấn đề của thế giới thực, và tạo phần mềm mới cho những thí nghiệm của hệ thống địa lý. Nhiều ý tưởng trong geosimuation được lấy từ các lĩnh vực khác như : khoa học máy tính, vật lý, hóa học, toán học, kinh tế, sinh thái học và sinh học. Trong đó, khoa học máy tính liên quan gần gũi nhất, đặc biệt là trí thông minh nhân tạo (artificial intelligence), cuộc sống nhân tạo (artificial life), và lập trình hướng đối tượng.
Các vấn đề liên quan đến đô thị thường hấp dẫn những người làm mô phỏng đặc biệt là những người làm về geosimulation. Hai dạng mô hình thường được sử dụng trong geosimulation là cellular automata và multi-agent system.
Vài nét về cellular automata trước, còn multi-agent system để sau.
Cellular automata (hay dạng số ít là cellular automaton, viết tắt CA) là một mô hình rời rạc được nghiên cứu trong lý thuyết khả năng tính toán (computability theory hay recursion theory), toán học, vật lý, khoa học phức hợp (complexity science), sinh học lý thuyết (theoretical biology), mô hình vi cấu trúc (microstructure modelling). Trong đó, chúng ta thấy có khoa học phức hợp, đây là lĩnh vực đáng chú ý, chắc phải dành thời gian đọc qua cho vui. CA bao gồm lưới những cell đều nhau, mỗi cell có một số trạng thái xác định, như “on” hay “off”. Lưới có thể có nhiều chiều . Đối với mỗi cell, một tập các cell lân cận, gọi là hàng xóm (thường bao gồm luôn cả bản thân cell đó) được định nghĩa tương đối theo cell đó. Trạng thái của các cell được xác định trong từng vòng lặp dựa trên trạng thái các cell hàng xóm và bảng quy luật. Để hiểu rõ hơn, chúng ta có thể xem xét một dạng cellular automaton đơn giản nhất là elemantary cellular automata (ECA). ECA có lưới dạng 1 chiều (dạng đường) các cell, mỗi cell có giá trị là 0 hoặc 1, và những quy luật chỉ dựa trên giá trị các hàng xóm (cell bên trái, cell bên phải và chính cell đó) để xác định trạng thái cell đó trong vòng lặp tiếp theo. Sự phát triển của ECA có thể được mô tả bởi 1 bảng trạng thái của 1 cell được chọn sẽ có trong vòng lặp kế tiếp dựa trên giá trị của chính nó, những cell bên trái và bên phải của nó. Từ đó sẽ có 2x2x2 = 8 trạng thái có thể có của 3 cell (2 cell lân cận và bản thân cell đó) , có tổng cộng 28 = 256 ECA. Hình bên dưới thể hiện bảng luật 30 của ECA.
ElementaryCA30Rules
 Vậy thì từ đâu có luật đó ? Dựa vào các số nhị phân. Cụ thể, như chúng ta thấy ở trên, số 30 biểu diễn ở dạng nhị phân là 0001110. Như vậy, trong automaton thứ nhất tính từ trái sang, nếu hai cell hàng xóm là đen, bản thân cell đó là đen, thì ứng với số 0 đầu tiên bên trái trong số 30 ở dạng nhị phân. Nghĩa là cell đó ở vòng lặp tiếp theo sẽ là trắng (giá trị là 0). Từ đó, chúng ta có thể dễ dàng hiểu các luật còn lại (các luật từ 0 đến 255). Trên cơ sở luật 30, giả sử chúng ta có 1 cell có trạng thái là 1 (màu đen) ban đầu, trong 20 vòng lặp, chúng ta sẽ có kết quả sau :
ElementaryCA30
Trong ví dụ trên, 2 vấn đề cần làm rõ hơn là loại lưới và hàng xóm. Loại lưới là một trong số những thuộc tính cơ bản của cellular automata. Đơn giản nhất là lưới 1 chiều như ví dụ trên. Bên cạnh đó, còn có các lưới 2 chiều có các dạng như : tam giác, hình vuông và lục giác. Đối với các lưới nhiều chiều hơn thí chúng ta chưa đề cập đến. Hình bên dưới thể hiện các dạng lưới :
Grids
Vấn đề thứ 2 là hàng xóm. 2 loại hàng xóm thường gặp là hàng xóm Moore (hàng xóm dạng vuông) và hàng xóm von Neumann (hàng xóm dạng kim cương). Hàng xóm Moore là loại hàng xóm có dạng hình vuông bao quanh cell cho sẵn. Hàng xóm Moore trong phạm vi r có thể được định nghĩa như sau :
 N_((x_0,y_0))^M={(x,y):|x-x_0|<=r,|y-y_0|<=r}.
Số cell trong hàng xóm Moore là (2r+1)2.
MooreNeighborhood
Hàng xóm von Neumann tập hợp những cell các cạnh tiếp xúc với cell cho sẵn. Hàng xóm von Neumann được định nghĩa như sau :
 N_((x_0,y_0))^v={(x,y):|x-x_0|+|y-y_0|<=r}.
Số cell trong hàng xóm von Neumann là 2r(r+1)+1
vonNeumannNeighborhood
Một dạng CA 2 chiều rất nổi tiếng là Game of Life của Convay. Một ví dụ của Game of Life được thể hiện bên dưới.
Chúng ta thấy Game of Life rất đơn giản trong hình bên trên, nhưng thực tế nó ứng dụng rất lớn trong nhiều lĩnh vực. Có thể download phần mềm golly về để xem cho vui. Download tại đây : http://golly.sourceforge.net/
Về Cellular Automata nên biết qua một nhân vật là Stephen Wolfram.
NNS

Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2012

Bài học từ anh xe ôm

Một câu chuyện chạm mạnh vào lòng tự ái của tôi. Nhưng với khía cạnh tích cực, tôi thầm cảm ơn anh xe ôm đã làm cho sự ham học hỏi của tôi trỗi dậy. Sau này, mỗi lần tôi gặp khó khăn trong việc gì đó, câu chuyện như một liều thuốc an thần giúp tôi cố gắng tìm cách giải quyết công việc.
 Câu chuyện xảy ra vào năm cuối đại học, khi đó, tôi đang đi thực tập tốt nghiệp tại một trung tâm gần Thảo Cầm Viên. Cũng như mọi ngày,sáng hôm đó, tôi và thằng bạn cùng đến trung tâm để thực tập. Chúng tôi gửi xe tại nhà xe của trung tâm. Bình thường, hai chúng tôi thường đi về chung, nhưng hôm ấy thằng bạn tôi có việc nên xin về sớm. Đến chiều,như mọi ngày, khi mọi người trong trung tâm ra về, tôi cũng ra về. Khi ra nhà xe lấy xe, tôi mới phát hiện ra chìa khóa xe bị mất. Tôi chạy kiếm khắp nơi nhưng vẫn không thấy nó ở đâu. Những giọt mồ hôi bắt đầu chảy xuống khuôn mặt lo lắng của tôi. Thứ nhất, chỗ thực tập khá xa chỗ tôi ở trọ. Thứ hai, tôi tuy ở thành phố mấy năm trời nhưng tôi lại ít đi chơi nên không có nhiều bạn và cũng không rành đường sá. Và điều quan trọng nhất là tôi không biết gì về xe máy. Lúc trước tôi toàn đi xe đạp và đi bộ tới trường. Mấy cài chuyện về xe máy nghe thằng bạn cùng phòng tôi nói nhiều lắm nhưng tôi chẳng quan tâm. Tôi đành dắt bộ xe ra đường để tìm chỗ sửa nhưng đoạn đường này là đường lớn trong thành phố nên không thấy có tiệm sửa xe nào. Tôi bắt đầu lo lắng và hầu như không nghĩ được cách gì khác ngoài việc cứ dắt bộ về, nhưng đường về tới nhà lại khá xa. Trời cũng đã bắt đầu mưa và màn đêm cũng dần buông xuống làm tôi càng cảm thấy lo lắng hơn bởi buổi tối rất khó phân biệt đường ở thành phố. Bỗng một anh xe ôm chạy lại gần tôi và hỏi: "Xe bị sao vậy, có cần sửa không?". Tôi vui mừng trả lời : "Tôi bị mất chìa khóa rồi. Không chạy được." Anh xe ôm bảo tôi đưa xe lên vỉa hè. Chỉ một thao tác đơn giản là mở hộp đèn ra và rút dây ngay ổ khóa, chiếc xe đã khởi động lại được. Tôi vui mừng hỏi anh xe ôm bao nhiêu tiền. Anh trả lời " Mười ngàn". Mười ngàn là một món tiền lớn lúc đó, bởi sáng tôi ăn bò kho có 3000, trưa và chiều ăn cơm sườn mỗi dĩa cũng có 5 ngàn thôi. Tôi đưa tiền và không quên cảm ơn anh. Trước khi đi anh xe ôm quay lại nhìn tôi, cười mỉa mai và nói: " Mất mười ngàn mà học được điều mới, đúng không ?". Tôi như bị một nhát chí mạng vào đầu. Gương mặt đó, nụ cười đó còn sắc bén hơn bất cứ con dao nào trên thế giới này. Trên đường về nhà, càng nghĩ tôi càng thấy đau thật. Không phải đau vì mất mười ngàn, mà đau vì tôi vẫn luôn cho mình là thông minh, là giỏi mà chỉ có mỗi một việc nhỏ như thế mà không biết làm, để cho người ta cười vào mặt mình.
Sau này khi làm bất cứ việc gì thường thì tôi chỉ làm 1 mình, ít có nhờ cậy ai lắm. Như hồi làm luận văn cũng vậy, thầy hướng dẫn đâu có hướng dẫn tôi gì đâu, tất cả từ ý tưởng đến nội dung, tôi tự làm hết, cái nào không biết tôi lên mạng tìm hiểu. Một điều tôi luôn tự nhủ là mình hãy tự cố gắng, trước khi nghĩ đến việc nhờ người khác.
NNS

Thứ Năm, 28 tháng 6, 2012

Ý tưởng kinh doanh mới

Sau những ngày rong ruổi trên các nẻo đường thành phố, tôi nhận thấy một ý tưởng kinh doanh mới đó là kinh doanh các sản phẩm làm từ da... chuột. Một điều dễ nhận thấy là nguồn nguyên liệu của mặt hàng này rất phong phú. Chỉ cần đi lòng vòng trên các nẻo đường là bạn có thể có một số lượng lớn nguyên liệu. Da chuột còn tươi do người dân ném ra đường cũng có, da phơi khô đã được ép bởi các xe qua đường cũng có,...Nếu bạn muốn trực lấy da từ chuột sống, bạn có thể tổ chức một đội ngũ chuyên bắt chuột ở các công viên, những nơi công cộng hoặc đến từng nhà người dân. Sau đó, chuột sẽ được lấy phần da cho việc chế biến sản phẩm để kinh doanh, còn phần thịt có thể bán cho các quán nhậu bởi tại đây thì chuột gì cũng tên là chuột đồng trên menu. Một điều bạn có thể yên tâm là nguồn nguyên liệu chuột không bao giờ cạn kiệt.
Tôi hy vọng sẽ giúp ích cho những người đang tìm kiếm ý tưởng kinh doanh.
NNS

Lịch sử GIS

Trong năm 1854, John Snow đã thể hiện sự bùng phát bệnh dịch tả ở Luân Đôn bằng việc sử dụng các điểm (points), các điểm này thể hiện vị trí của từng trường hợp cụ thể. Đây có thể xem là việc sử dụng phương pháp địa lí sớm nhất. Nghiên cứu của Snow về sự phân bố bệnh dịch tả dẫn ông đến nguồn gây bệnh, một máy bơm nước bị ô nhiễm nằm tại vị trí trung tâm của đợt bùng phát dịch tả này.
Trong khi những thành phần cơ bản liên quan đến địa hình (topography) và những chủ đề đã có sẵn trước đó trong ngành bản đồ, thì bản đồ của Snow là duy nhất bởi lần đầu tiên sử dụng những phương pháp bản đồ không chỉ để thể hiện mà còn để phân tích nhóm (cluster) những vấn đề liên quan đến địa lý.
Những năm đầu thế kỷ 20 đã chứng kiến sự phát triển của ngành thuật in ảnh bằng bản kẽm (photozincography), kỹ thuật này cho phép những bản đồ được chia thành các layer, chẳng hạn 1 layer về thực phủ, một layer về sông ngòi,... Kỹ thuật này đặc biệt được sử dụng cho việc in những đường đồng mức (contours) (bởi việc vẽ những đường này rất khó khăn và việc chia thành layer riêng giúp tránh được sự nhầm lẫn của người vẽ). Công việc này trước kia được vẽ trên những tấm kính nhưng sau đó, film nhựa (plastic film) được sử dụng do ưu điểm là nhẹ hơn, chiếm ít không gian lưu trữ và ít giòn hơn. Khi tất cả các layer được hoàn thành, chúng sẽ được kết hợp vào trong 1 ảnh sử dụng một camera chuyên dụng lớn (gọi là process camera). Khi màu được đưa vào, ý tưởng về việc chia thành từng lớp cũng được sử dụng để tạo ra các màu in riêng biệt. Khi mà việc sử dụng layer trở thành trở thành một trong những đặc trưng điển hình của GIS hiện đại, thì quá trình chụp ảnh được mô tả ở trên không được xem xét trong GIS.
Sự phát triển của phần cứng máy tính được thúc đẩy bởi nghiên cứu vũ khí hạt nhân dẫn đến những ứng dụng của việc thành lập bản đồ trên nền máy tính trong đầu những năm 1960.
Năm 1960 cũng chứng kiến sự phát triển của việc vận hành GIS thực sự ở Ottawa, Ontario, Canada của Cục Lâm Nghiệp và Phát triển Nông thôn Liên bang. Được phát triển bởi tiến sĩ Tomlinson, khi đó nó được gọi là Hệ thống thông tin địa lý Canada (CGIS) và được sử dụng để lưu trữ, phân tích, và thao tác trên dữ liệu được thu thập cho Canada Land Inventory (một nỗ lực xác định khả năng sử dụng đất cho vùng nông thôn Canada bằng việc thành lập bản đồ thông tin về thổ nhưỡng, nông nghiệp, giải trí, cuộc sống hoang dã, lâm nghiệp, và sử dụng đất ở tỷ lệ 1:50.000. Một nhân tố đánh giá sự phân loại cũng được đưa vào trong phân tích.
CGIS là một sự cải tiến những ứng dụng vẽ bản đồ trên nền máy tính khi nó cung cấp khả năng chồng lớp (overlay), đo lường và quét/số hóa. Nó hỗ trợ một hệ thống tọa độ quốc gia mà bao phủ toàn bộ lục địa, những đường được mã hóa gọi là arc có quan hệ (topology) với nhau và nó lưu trữ thông tin vị trí và thuộc tính trong những file khác nhau. Và do đó, Tomlinson được coi là cha đẻ của GIS, đặc biệt là việc ông sử dụng chồng lớp trong việc thúc đẩy phân tích không gian của dữ liệu địa lý.
CGIS tồn tại đến những năm 1990 và đã xây dựng một CSDL về tài nguyên đất ở dạng số rất lớn ở Canada. Nó được phát triển như là một hệ thống khung nền trong việc hỗ trợ tỉnh và liên bang trong việc quy hoạc và quản lý tài nguyên. Sức mạnh của nó được thể hiện ở việc phân tích trên khu vực lục địa rộng lớn với CSDL phức tạp. Và CGIS không bao giờ trở thành hệ thống thương mại được.
Trong năm 1964, Howard T. Fisher lập phòng thí nghiệm Đồ họa máy tính và phân tích không gian ở Harvard Graduate School of Design, nơi mà một số quan trọng những khái niệm trong kiểm soát dữ liệu không gian được phát triển và trong những năm 1970, đã phân phối mã nguồn và hệ thống phần mềm như SYMAP, GRID, và ODYSSEY (được xem là nguồn của các sự phát triển các phần mềm thương mại ngày nay).
Đầu những năm 1980 M&S Computer (mà sau này trở thành Intergraph) cùng với Bentley Systems Incorporated xây dựng nền tảng CAD, (Environmental Systems Research Institute) ESRI, (Computer Aided Resource Information System) CARIS, (Earth Resource Data Analysis System) ERDAS nổi lên như những phần mềm thương mại GIS, đã thành công trong việc kết hợp nhiều đặc trưng của CGIS, kết hợp phương pháp thời kỳ đầu là tách thông tin không gian và thuộc tính với phương pháp thời kỳ thứ hai là sắp xếp thuộc tính vào trong những cấu trúc CSDL. Song song đó, sự phát triển của hai hệ thống công cộng (MOSS và GRASS GIS) bắt đầu từ những năm 1970 đến đầu những năm 1980.
Cuối thế kỷ 20, sự phát triển nhanh chóng của những hệ thống khác nhau đã được hợp nhất và chuẩn hóa trên một vài nền tảng và người sử dụng bắt đầu khám phá khái niệm dữ liệu GIS thông qua Internet, đòi hỏi chuẩn dữ liệu và cách thức truyền dữ liệu. Gần đây, sự phát triển của các gói phần mềm mã nguồn mở chạy trên nhiều hệ điều hành và có thể tùy biến để thực thi những nhiệm vụ cụ thể.
Dịch từ : http://en.wikipedia.org/wiki/Geographic_information_system
Bài viết tuy hơi lộn xộn nhưng phần nào thể hiện được lịch sử GIS, hiện nay thì WebGIS đã trỏ nên rất quen thuộc với mọi người. Và tôi thấy người ta cũng bắt đầu đề cập đế Cloud GIS. Lâu rồi không có thông tin, ây da tụt hậu rồi.
NNS

Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012

Học thêm của học sinh trung học


Thời học sinh trung học, hầu như ai cũng đã trải qua giai đoạn học thêm. Thật ra học thêm không có gì xấu, ở trường thầy cô chỉ dạy những gì cơ bản nhất, dạy ngắn gọn nhất nên những kiến thức bạn học được không nhiều và khả năng áp dụng của bạn sẽ gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, đối với môn toán, trong trường học sinh sẽ học về định lý, nhưng nếu muốn áp dụng định lý đó trong 1 bài tập cụ thể thì không phải dễ. Thường thầy cô chỉ cho được chừng 1 ví dụ để áp dụng, nhưng nhiêu đó chưa đủ để học sinh có thể hiểu hết định lý hay áp dụng vào bài toán bất kỳ là rất khó. Bên cạnh đó, hầu hết học sinh đều thụ động, giáo viên dạy gì thì học đó, không dạy thì không học, sách vở có sẵn cũng ít khi nào dở ra xem nên việc tự tìm hiểu là hầu như không có. Do đó, học thêm trở thành một nhu cầu thiết yếu để học sinh có cơ hội hiểu rõ hơn về cái mình học, áp dụng được và mở rộng được vấn đề. Đây là cái lợi có thể dễ dàng nhận thấy. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề phức tạp nằm bên trong cái vẻ ngoài đơn giản đó.
Nhiều khi đi học thêm như đi chơi vậy. Thầy cô không thể kiểm soát nổi học sinh, vào học chúng chỉ nói chuyện, sau khi về không về nhà mà đi chơi. Hoặc lấy cớ đi học thêm nhưng không đi mà đi chơi. Cái này là do học sinh, tôi không đề cập đến.
Điều tôi cần nói là giáo viên. Không nói tới chuyện trình độ giáo viên. Một thực trạng ngày nay là giáo viên đang cạnh tranh dạy thêm. Những giáo viên có tiếng dạy giỏi thì học sinh học đông, trong khi những giáo viên ít tiếng tăm thì ít hoặc thậm chí không ai học. Điều này dẫn đến lòng đố kỵ, và học sinh sẽ lãnh hậu quả. Giáo viên đó sẽ giảng dạy sơ sài trên lớp và tìm kiếm những vấn đề khó để cho học sinh làm kiểm tra. Kết quả học sinh bị điểm thấp và ảnh hưởng đến thành tích học tập cả năm. Muốn giải quyết thì chỉ có nước đi học thêm ở giáo viên đó thôi, mặc dù học sinh chán nản không muốn đi, nhưng không đi không được. Trường hợp của em tôi là một ví dụ, môn toán đi học thêm ở 1 cô có tiếng nhất trường, nhưng vô lớp học toàn đạt điểm thấp, và cô giáo dạy trong lớp còn nói là “cô biết em đi học cô khác”. Thế là em tôi phải về xin tiền đi học cô đó, về sau điểm số luôn đứng hàng top trong lớp. Mà nói chi xa, bản thân tôi cũng bị rồi. Hồi tôi còn học cấp 3, môn Vật lý đối với tôi là một thảm họa, vô lớp ông thầy chẳng dạy gì cả, cứ cho bài tập, rồi hỏi đứa nào biết lên bảng làm. Thử hỏi không dạy lý thuyết, cứ cho bài tập, biết gì mà làm. Vậy mà mấy đứa kia chen nhau lên làm mới hay chứ. Còn kiểm tra, mới đọc đề xong, chừng 5 phút sau là đã có một nhóm đứa tranh nhau nộp. Còn tôi ngồi hoài chẳng biết làm sao. Mà ông thầy đó chơi trò, 10 đứa nộp đầu tiên điểm cao nhất là 10, 10 đứa kế tiếp là 9,…Tôi thì nhờ nhỏ bạn kế bên chỉ là chủ yếu, mà nó làm xong mới chỉ, nên điểm cao nhất chỉ là 7 thôi. Sau này, tôi thắc mắc hỏi sao mấy đứa đó giỏi thế, nhỏ bạn tôi mới nói là vì trong lớp học thêm thầy đã cho công thức rồi, cứ vậy thế số vô tính thôi. Hay thật. Nhờ ông thầy đó dạy mà mấy đứa luôn đạt điểm cao đó rớt đại học hết. Lớp tôi chỉ đậu vài đứa, trong đó có tôi, giờ nghĩ lại cũng cám ơn ông thầy đó, nhờ ổng mà tôi biết thế nào là tự học.
Mà nếu như đi học thêm các môn chính có khả năng thi tuyển thì cũng không nói gì, còn đằng này, đi học thêm vẽ, học thêm giáo dục công dân, mới chán chứ. Bởi nếu không học thêm, điểm số mấy môn này luôn thấp, ảnh hưởng đến thành tích cuối năm. Em tôi ngày đó về xin tiền mẹ đi học thêm vẽ, tôi hỏi bộ em thích vẽ hả. Nó nói nếu không học thì điểm luôn dưới trung bình, khống chế kết quả học tập. Tôi lấy mấy cái hình nó vẽ ra coi, không đẹp nhưng không đến nỗi xấu để đạt điểm 3, điểm 4. Từ ngày đi học vẽ điểm 10 luôn xuất hiện. Tôi hỏi đi học thêm vậy thầy dạy gì. Nó nói vô thầy cho ngồi can cái hình mà sắp kiểm tra, vậy thôi. ^_^.
Một chuyện tôi nghe em tôi kể lại mà thấy rất buồn. Nhỏ bạn của nó nhà nghèo, không có tiền đi học thêm. Nhưng nó rất siêng năng, chăm chỉ, năm nào cũng là học sinh giỏi. Năm nó học lớp 9, vô học môn có khả năng thi tuyển, cô không dạy gì hết, chỉ đưa bài tập rồi cho kết quả. Bà cô còn nói muốn biết thì đi học thêm đi. Mà tiền học thêm bà ta lấy rẻ thôi, 1.5 triệu 1 em, bả nói ở trường em tôi học (là 1 trường lớn trong huyện) thầy cô ở đó lấy mắc hơn nhiều. Em tôi nói, nó học thêm cô chủ nhiệm nó cũng dạy môn đó, có 500 ngàn, bằng 1/3.
Tôi không biết nói gì hơn, trong thời buổi kinh tế khó khăn này, đúng là kiếm tiền rất khó khăn, nhưng không phải vì thế mà bất chấp tất cả. Một đứa học sinh học giỏi, chăm chỉ như vậy, mà nỡ lòng nào đối xử với nó vậy. Nó không có tiền đi học thêm thì nó sẽ không thể có điều kiện học sao ? Thật không công bằng.
Còn chuyện mấy chuyện gian lận thi cử báo chí đưa tin ở một trường nào đó. Tôi không thấy bất ngờ, bởi nếu bạn có quen với giáo viên thì bạn sẽ hiểu. Áp lực thành tích, áp lực phổ cập. Thành tích thì ai cũng biết rồi, còn áp lực phổ cập là gì ? Tôi lấy ví dụ, nếu một học sinh bỏ học trung học cơ sở, thì giáo viên phải đến nhà năn nỉ nó đi học, nếu năn nỉ không được thì giáo viên sẽ bị khiển trách bởi chỉ tiêu phổ cập không đáp ứng. Còn nếu năn nỉ được thì khi nó vô học phải ráng nâng niu nó, bởi không nó nghỉ nữa thì phải đi năn nỉ. Nó thi thì phải tìm cách cho nó đậu. Đại khái là vậy. Bởi vậy vì sao mà ngày nay ít thất giáo viên đánh học sinh học dở. Tôi nhớ hồi tôi còn học cấp 2, năm lớp 9, đứa nào mà không làm được bài, không thuộc bài, bất kể trai hay gái đều cuối xuống cho cô đánh. Nhờ vậy mà năm đó lớp tôi ai cũng đậu tốt nghiệp. Còn bây giờ ai cũng đậu tốt nghiệp nhưng vì cái khác.
Đó là những gì tôi thấy, tôi nghe người ta kể. Có lẽ khiến tôi bi quan nhưng tôi vẫn hi vọng đó chỉ là những “con sâu” nhỏ nhoi mà thôi.
 NNS